Y Thi - Phạm Xuân Vinh
DANH NHÂN BÙI DỤC TÀI
Đến làng Câu Nhi văn vật, chúng tôi gặp ông Bùi Hoành, vị trí thức nửa
chữ Nho, nửa chữ Tây dưới
thời Pháp thuộc. Theo cách mạng, suốt hai cuộc
kháng chiến, tận tuỵ, trung thành, có thể nói trẻ
xông pha, già mẫu mực, nay tròn 76 tuổi còn rất minh mẫn,
cụ cặm cụi tra cứu,
dịch thuật, hiệu chỉnh
và chép thêm vào gia phả
họ Bùi đời thứ 17 đến
đời 19.
Quốc sử và gia phổ, hai lĩnh vực tưởng khác nhau nhưng
không, nó hoàn thiện lẫn nhau, ít nhất trong trường hợp những
trang phổ viết về ông Bùi Dục
Tài.
Điều
đáng ghi nhận trước tiên phải kể đến
văn bản gốc ở gia phả
họ Bùi làng Câu Nhi. Từ bản Thỉ
thiên đến nay đã 6 lần sao chép vẫn còn lưu giữ
được ở nhà từ đường
họ Bùi. Sáu lần sao vào các đời sau:
- Năm Tân Tỵ,
triều Lê Thánh Tông, niên
hiệu Quang Thuận thứ I (1461), bản
Thỉ thiên được sao bởi thí sinh Bùi Hữu Khát.
- Năm Mậu
Thân triều Nguyễn Huệ, niên hiệu
Quang Trung nguyên niên (1788) thí sinh Bùi Hữu
Thọ sao lại bản ông Khát.
- Năm Quý Sửu
triều Nguyễn Dực Tông, Tự
Đức thứ 6 (1853) tú tài Nguyễn Tăng Bỉnh sao lại bản ông Thọ.
- Năm Tân Mão triều
Nguyễn Thành Thái, Thành
Thái thứ 3 (1902), Bát phẩm Bùi Văn Uýnh nhân tu gia phổ mời ông Phạm
Như Suyền sao lại bản
ông Hoàn.
- Năm 1991 - 1995, cháu đời
thứ 17 là ông Bùi Hoành dịch ra Quốc ngữ theo bản
ông Hoàn có đối chiếu với các bản
cũ và chép thêm đời 17 đến đời 19. Có thể
coi đây là tập gia phả đáng tham khảo.
Từ thế kỷ 14, tằng
tổ họ Bùi, ông Bùi Thung gốc ở thôn Đông Nhi, huyện
Vọng Dinh, Văn Giang (nay
thuộc Nam Định) (1) tham gia quân đội nhà Trần vào đánh dẹp quân Chăm-pa ở phương Nam. Đến
xứ trung đô Thanh Hoá,
ngài lâm bệnh nặng. Nhờ có thầy
thuốc đưa về nhà chạy
chữa, qua được cơn thập
tử nhất sinh. Để đền đáp ơn
thầy, ông ở lại đây, trước
có chỗ nương nhờ sau có dịp
đền ơn thầy cứu
sống. Vốn người cường
tráng, hoạt bát, cần cù ngài sớm được gia đình người
thầy thuốc tin yêu, xóm làng mến phục cho đăng vào danh tịch địa
phương, dựng vợ gả
chồng, cho làm đầu mục. Trải
ba đời sinh hạ con cháu, làm ăn phát đạt, đầm ấm,
yên vui.
Ở đời thứ tư
có ông Bùi Trành hiệu Trường Hiên tư chất thông minh, hào hiệp, nghĩa lý tinh thông, văn chương mẫn tiệp,
nói năng hoạt bát nên được vua Trần giao nhiệm vụ hiệp
lực với uý lạo sứ
Tướng công Nguyễn Văn Chánh, Đô hành kiểm soát sứ Phạm Duyến
vào Nam thương thuyết với quân Chiêm đồng
thời quan sát địa hình phòng khi có chiến sự. Ông là người
nhiều lần vào xứ Thuận
Hoá, thông thạo ngôn ngữ, phong tục tập quán và giao tiếp
mật thiết với người
Chiêm, được người bản xứ tôn kính, mến
phục. Một hôm ở Trung đô nhân làng tế lễ
ở đình ông bận không đến dự được,
hương dịch đến mời.
Có vị bô lão khích bác:
“Kẻ ngụ cư chưa
hết ba đời vắng mặt
mà hương dịch đã sai con cháu ta đi mời, chắc có chua ngọt
gì với gia đình ông ấy chăng”. Chuyện đến
tai, ông Trành ứng khẩu:
“Thiên tri, địa
tri, quỷ thần tri
Hà tất
minh minh bỉ thử vi
Bán cú túc trưng
văn lý mật
Liên thuyên luỵ
độc dĩ kham quy”
Ông Bùi Hoành dịch:
Trời
soi đất xét quỷ thần hay
Sao nở
mỉa mai chuyện tớ mày
Nói ít nghe hay lời
lẽ phải
Dài dòng mỏi
miệng khác gì say!
Tuy không tỏ
rõ ra sự bất bình nhưng ông Bùi Trành đã lặng lẽ giao cho người
tuỳ tùng tên Đề Phòng ra
Bắc mua hàng hoá rồi theo thuyền buôn vào phía Nam buôn bán,
kiếm cớ chu du tìm nơi gây dựng cơ
đồ lâu dài cho con cháu.
Nhân triều đình thông báo
việc chiêu dân vào xứ Ô Châu, trương khẩn vùng đất
mới, ông liền khởi ứng
chiêu mộ được 21 người, tương ứng
với 12 họ có công đầu trong việc lập làng, vì vậy
mới có câu đối ở đình làng Câu nhi:
“Khai thác đồng
công thập nhị tiên sinh
Thuỷ
thiên hợp tự bách thiên thế tại”
Điều
đáng quý ở danh sách 21 vị này, gia phả ghi rõ sở trường nghề
nghiệp của từng người.
Như ông Nguyễn Kinh (Nho học huấn đạo),
Hoàng Tất Đắc (người Minh Hương
là thầy địa lý), Trần Ninh (quê ở Bắc Ninh thạo
nghề nông), Lê Thành
(chuyên nghề thợ mộc), Đặng
Khiêm (người Hải Dương thạo
nghề may, giỏi nghề thuốc…)
Điều đó chứng tỏ tầm
nhìn xa trông rộng của cha ông ta trong việc di dân lập ấp nói chung và tài kinh bang tế thế nói riêng của
ông Bùi Trành.
Trong việc
kiến lập nên xã hiệu mới cũng theo gia phả,
do ngài Trường Hiên đề xướng. Họ
chung lưng đấu cật, khai cương
thác thổ quy dân lập ấp sớm
lập nên được quê hương mới không ngoài mấy
yếu tố thiên thời, địa lợi,
nhân hoà. Với người Chiêm do đã từng giao hảo trước đây nên lúc di dân đến ở,
họ được đối xử
rất ân cần, trong những dịp lễ
tết truyền thống, họ
thường mang những mặt hàng đặc
sản nhất là hàng thổ cẩm như
gấm thêu hoa đến tặng biếu.
Ngài Trường Hiên không
dùng, đem dâng lên Vua Lê. Lê Thái Tổ
xem ông như người có công với dân, với nước, đã ban tặng
cho ông tước “Cẩm đề Lê quan”. Nơi
họ đứng chân là nơi linh tú, cảnh trí tốt đẹp. Thật
là “Bạch câu cao phi lãm
nhi hạ chi”. Và ngài Trường Hiên đã chọn hai chữ Câu Lãm làm xã hiệu mới. Sau khong rõ năm nào, để tưởng
nhớ quê xưa của họ
Bùi, đổi lại Câu Nhi, cũng lấy hai chữ trong hai xã cũ và mới Câu Lãm, Đông Nhi. “Quyết sơ sinh dân Hà Nội,
Nghệ An, Thanh Hoá; Dĩ hữu kim nhật Quảng Trị,
Hải Lăng, Câu Nhi” – Câu
đối này khắc ở đình làng Câu Nhi dưới thời
vua Thành Thái có ý nghĩa như
thế.
Do có sự
thay đổi tên làng xã như trên nên sau này sử sách cũng có những sai sót đáng kể về mảnh
làng của ông Bùi Dục Tài. Quốc triều hương
khoa lục ghi ông Tài “người xã Câu Lãm”, Ô Châu cận lục ghi “xã Câu Nhi” (làng cũ ngày xưa gọi là xã). Điều
đó phản ánh một thực tế.
Nhưng có sách mới xuất bản
gần đây (từ điển nhân vật
lịch sử Việt Nam của
Nguyễn Q.Thắng và Nguyễn Bá Thế, NXB-KHKT-HN,1991 nhầm lẫn
cả hai nguồn sử liệu
kia nên chép về làng xã của ông Bùi Dục Tài là “Người xã Câu Nhi, thôn Câu Lãm…
không rõ năm sinh năm mất”
những sai sót như thế sẽ
được bàn tiếp ở bài viết
này. Có chi tiết liên
quan là ngay cả bia tiến sĩ khắc họ
tên quê quán của ông Bùi
Dục Tài ở Quốc tử
Giám ngày trước cũng ghi:
“Hải Lăng huyện, Câu Lãm xã” Năm Tự Đức thứ
27 (1875) Lại Bộ Thượng thơ
Quốc Tử Giám thấy bia ghi như trên, ông đã sai đốc đường Trần
Đình Tú gọi thợ đá đến khắc
đối Câu Lãm thành Câu
Nhi.
Gia phả
cho biết: Ông Bùi Dục Tài có hiệu là Minh Triết tiên sinh, sinh năm Đinh Dậu (1477) và mất ngày 12 tháng 8 năm Mậu Dần (1518), cháu đời
thứ 5 của ông Bùi Trành.
Bố là
Bùi Sĩ Phường, bấy giờ làm xã trưởng
nhưng cảnh nhà thanh bần. Năm lên 13 tuổi ông Tài chưa được đi học.
Nhân chưa thu nộp đủ thuế,
quan huyện thân hành đến nhà đốc thúc, quở
mắng ông thậm tệ. Ông Tài tò mò hỏi
thì được trả lời – “Ông ấy
vì có học, được làm quan huyện nên quyền thế sai khiến
cả vùng”. Ông Tài tỏ ý không phục – “Tưởng ông ấy
có biệt tài chi chớ lấy văn chương
thì con cũng làm được”.
Thấy con có thiên tư ông Bùi Sĩ Phường từ đó dốc
lòng cho con theo việc
đèn sách.
Con đường
cử nghiệp ngày xưa thật vô cùng khó khăn, tốn kém và lâu dài. Câu Nhi hoặc xứ Thuận
Hoá nói chung là vùng đất
mới. Cử nghiệp, học
hành, đèn sách tất nhiên
còn mỏng mảnh, sơ sài. Trong khi sĩ tử từ
Thanh Hoá, Nghệ An trở ra đã trải qua mấy thế
kỷ học hành, thi cử và dĩ nhiên thừa hưởng những
điều kiện học tập
tốt hơn, kể cả
phần bao cấp của Nhà nước
phong kiến. Chẳng hạn lúc mới
lên ngôi (1428) vua Lê Thái Tổ
hạ chiếu dựng nhà dạy
dỗ người tài, kinh đô có Quốc Tử Giám, các địa
phương có nhà học ở các phủ,
đời vua Lê Thánh Tông
hàng năm triều đình ban
phát sách công cho các phủ
như Tứ Thư, Ngũ Kinh, Ngọc
đường văn phạm, Văn hiến thông khảo (348 quyển) Văn tuyển (602 quyển), Thông giám cương mục (591 quyển)…
Ngó sách cũng đủ ngợp. Thế mà trong vòng 12 năm (khoảng 1490 - 1502) ông Tài đã “đi” hết kiến thức
cơ bản của một
nho sĩ.
Năm Tân Dậu,
niên hiệu Cảnh Thống thứ
4 đời vua Lê Hiến Tông (1501) Bùi Dục Tài vác lều chõng đi thi Hương. Thuở ấy cả
nước chia làm 13 xứ, trường thi Hương
xứ Thuận Hoá đặt ở
đâu không thấy sử sách chép lại nhưng trường
quy nghiêm túc, bài văn do quan hàn lâm
của triều đình cử đến chấm,
bảo đảm việc chọn
lựa nhân tài. Luật lệ phạt
rất nặng những người
nào man khai lý lịch, làm
bài gian dối, hạnh kiểm xấu
hoặc trốn tang cha mẹ đi thi. Nhật ký thi ở xứ Thuận
Hoá được Phan Huy Chú viết rõ trong “Lịch triều hiến
chương loại chí” ở “Khoa mục
chí” như sau (theo âm lịch):
- Ngày 08/8: vào trường
nhất thi Tứ thư và Ngũ kinh 5 bài
- Ngày 13/8: vào trường
nhì thi chiếu, chế, biểu, dùng tứ
lục cổ thể.
- Ngày 18/8: vào trường
ba thi thơ (dùng đường luật) phú (dùng cổ
thể, thể ly tao hoặc văn tuyển) đều trên 300 chữ.
- Ngày 26/8: vào trường
tư thi Kinh sách (đề thi về kinh sư,
thời vụ) bài phải dài 1000 chữ trở lên.
- Ngày 01/9: Yết
bảng người đỗ
Ông Bùi Dục
tài đã vượt qua được bốn cửa
ải để đỗ Hương
tiến trong số hạn định
30 hương tiến mà trường thi Thuận
Hoá được phép lấy từ hàng trăm ngàn sĩ tử. Lúc này những
vị tân khoa được mời đến
Dinh quan trấn thủ dự lễ
tạ ơn vua, được ban yến, lĩnh mũ áo. Đỗ Hương cống
như cử nhân sau này được đón rước long trọng, có lộng đình và đồ nghi trượng thờ thần.
Ông Cống Bùi Dục Tài mang mũ áo triều đình, cưỡi ngựa, che lộng
về làng Câu Nhi. Bàn dân
thiên hạ hớn hở đón đầy
hai bên đường vừa ngắm, vừa
khen.
Mùa xuân năm sau, tháng 2 năm Nhâm Tuất (1502) Bùi Dục
Tài lặn lội từ Hải
Lăng ra đến Thăng Long
thi Hội. Được dự kỳ thi Hội
là dịp thử thách văn tài giữa hàng ngàn cống sĩ trong cả nước. Ở
kỳ thi Hội này, bộ Lễ định
phép thi, các quan cận thần ra đầu bài, vua sửa
lại rồi đưa xuống
phòng thi. Những viên tuần xước (giám thị)
ở trường thi mỗi ngày thay đổi một lần.
Các khảo quan trước ngày thi tất cả các quan trường
phải hội thề, không tư
thiên dối trá. Ở kỳ thi này chàng cống sĩ 25 tuổi ở xứ
Thuận Hoá xa xôi cách trở là Bùi Dục Tài phải tranh tài với 5.000 thí sinh trong cả nước (2), những
kẻ đã từng trải qua trường
văn trận bút. Theo định lệ ở
kỳ thi Hội năm trước (1501) có tất cả 730 Hương
cống được chấm đỗ.
4.270 thí sinh còn lại có
thể chia làm 2 loại: Những người
đã qua những kỳ thi Hội trước đây nay rất
am tường chuyện thi cử, hoặc
số quan viên có học tập cử
nghiệp đã vượt qua các kỳ sát hạch cũng được phép vào thi Hội. Kỳ thi năm ấy qua 4 trường sau:
- Trường
nhất: thi Kinh nghĩa 8 đề (luận ngữ
4 đề, Mạnh Tử 4 đề.
Cử tử chọn lấy
4 đề để làm. Ngũ kinh mỗi kinh 3 đề, cử tử
chọn lấy 1 đề, riêng 2 đề
về Kinh Xuân thu thì chọn 1.
- Trường
nhì: thi chiếu, chế, biểu, mỗi
thể 3 bài
- Trường
ba: thi thơ và phú mỗi thế 2 bài, phú dùng thể
Lý Bạch
- Trường
tư: thi văn sách 1 bài, hỏi về ý chỉ
kinh truyện và chính sự các đời hay dở
thế nào.
Khoa thi hội
này chưa rõ ai là người thi đỗ Hội nguyên nhưng
trong số 5.000 ứng thí có 61 người được lấy
đỗ (tỷ lệ 82 người
lấy một người) trong đó có Bùi Dục Tài quê tận
Hải Lăng xa xôi.
Thi Đình thực
chất là xếp hạng những
người đã được chọn lọc
qua kỳ thi Hội. Sáng sớm hôm ấy 61 người
trúng cách mà Bộ Lại đã tâu lên được dẫn đến
sân điện Kính Thiên. Ở chốn nghiêm cẩn,
do số lượng ít nên ai nấy được dẫn
về lều riêng làm bài trong không khí
im ắng, khép nép. Vua Lê
Hiến Tông đích thân ra đề văn sách hỏi về công việc
đế vương trị nước.
Trông nom trường thi đều là các vị quan to của triều đình.
Sau những
ngày ruột gan lửa đốt chờ
tin, bảng vàng thi Đình được công bố, lễ xướng
danh tổ chức rất trọng
thể. Người đỗ trạng
nguyên khoa ấy là ông Lê
Ích Mộc người xã Thanh Lãng, huyện Thanh Đường (nay huyện Thủy Nguyên, Hải
Phòng), trong 24 người ở bảng đệ
nhị giáp tiến sĩ, có tên ông Bùi Dục Tài, 34 người còn lại đều đạt
học vị đệ tam giáp đồng
tiến sĩ xuất thân. Khó tả hết niềm
vui của những người hàng chục
năm dùi mài kinh sử nay được đỗ đại
khoa, nhất là đối với chàng trai Câu Nhi xa xôi đang lừng tiếng giữa
đất kinh kỳ Thăng Long
ngàn năm văn vật. Bùi Dục Tài và các vị tân khoa được vời vào sân rồng
dự lễ xướng danh, được
ban yến, ban mũ áo, cờ biển mang chữ
“Đệ nhị giáp tiến sĩ” và “Sắc tứ vinh quy”, được
khắc tên vào bia đá ở Văn Miếu, được
phong trật tòng thất phẩm. Ông Tài được
ban áo chầu bằng vải ô sa, một
mũ phác đầu hai cánh, lá
đề tam sơn bằng bạc
giống mũ tam khôi, đai bịt thau làm bằng gỗ hương
bọc lụa màu tím than và cành hoa bạc, 1 cây 6 cành nặng 6 đồng cân. Người
đỗ đại khoa như ông Tài được cả một
huyện đi rước long trọng gấp bội
lần vinh quy năm trước. Thử hỏi
trong 8 ngàn xã (đơn vị hành chính tương đương lúc ấy)
đã có mấy nơi vinh dự như làng Câu Nhi xa xôi tận xứ
Thuận Hoá.
Từ thi
Hội đến thi Đình, ông Bùi Dục Tài 25 tuổi đều được
khen ngợi về văn ứng chế,
nổi tiếng học vấn
uyên bác. Ông Tài đã đem về
cho quê hương Câu Nhi,
cho Xứ Thuận Hoá danh hiệu vẻ vang tiến
sĩ khai khoa, dựng mốc son học vấn,
khoa cử cho cả Đàng Trong suốt hơn 400 năm về
sau. Sự kiện này, về sau tác giả Dương An bình luận
trong “Ô châu cận lục”: “Đặng Tất
thắng trận Bô Cô quân uy lừng lẫy, Bùi Dục
Tài đỗ Tiến sĩ khai khoa cho một địa phương
danh tiếng tuyệt vời… Cái tài văn chương
chính sự của Bùi Dục Tài thật
là người giỏi của cả
nước chứ không phải là người giỏi
của xứ Ô Châu”.
Tiếc rằng sự nghiệp
văn chương ấy hiện nay còn lưu
lại mỗi một bài “Biện
luận về việc làm ra chiếc
gậy để đánh Tần Sở”,
viết chung với người bạn
đồng khoa mà đã được đánh giá như là đại biểu
xứng đáng một thời cho tư
tưởng nhân nghĩa đại Việt. (3)
Ông Bùi Dục
Tài ra làm quan lúc 25 tuổi,
trải 15 năm, sử cũ chép rất vắn tắt:
“Ông nổi tiếng văn học, làm quan trải các chức Hàn lâm Hiệu lý (1502). Tham chính đạo Thanh Hoa. Năm Hồng Thuận I đời
Lê Tương Dực (1509) ông được
thăng chức Lại bộ Tả
Thị Lang. Dưới thời Lê Chiêu Tông niên hiệu Quang Thiệu
(1546 - 1522), ông giữ chức Tham tướng. Khi trở về kinh lý ở
xứ Thuận Hoá bị gian đảng
sát hại” (Ô châu cận lục, tr.269). Lương
An trong lời giới thiệu bản
dịch “Biện luận…” đã dẫn
ghi rõ hơn: “Triều đình giao ông chức Tham tướng và đưa về Thuận
Hoá vận động nhân dân và sĩ phu chống lại âm mưu
tiếm ngôi của Mạc Đăng Dung. Khi trở
ra Thăng Long ông đã bị bọn tay chân của họ Mạc
sát hại” (không rõ tác giả dựa vào nguồn
tư liệu nào để kết
luận như thế!). Gia phổ
ghi rất rõ về cái chết của
ông: “Năm 1518, đời vua
Lê Chiêu Tông, niên hiệu
Quang Thiệu thứ 3 có bọn Đô Kiềm,
Đô Chức nổi lên làm loạn nhiễu hại
quân dân, triều đình giao
cho ông kiêm chức Tham tướng đem quân đi dẹp loạn. Ông giết
được tên Đô Kiềm còn Đô Chức chạy thoát nuôi chí báo thù. Khi mang quân trở về Thăng Long, ngang địa phận
Bàu Đá, huyện Võ Xương (nay thuộc làng Cẩm Thạch, xã Cam Giang, Cam Lộ, Quảng
Trị) là nơi hoang vắng, gặp quân Đô Chức
xuất trận bất ngờ.
Biết bị mai phục vẫn
dũng cảm đánh quân phản nghịch đến
hơi thở cuối cùng. Nhân dân làng Cẩm Thạch
dựng miếu lớn thờ
ông tại chỗ. Là người tiết
nghĩa trung quân ông được
vua Lê Chiêu Tông truy tặng
chức Lễ Bộ Thượng
thư. Làng rước sắc phong và cả
thi hài của ông đưa về chôn cất
ở cồn cát Yên Biều, Câu Nhi, hưởng thọ 41 tuổi.
Làng Câu Nhi dựng miếu thờ ông trong khuôn viên chùa lớn của làng. Năm Tự
Đức thứ 11(1858) nhân triều đình kiểm kê khen thưởng những người
có công với nước, làng chép sự tích của ông nộp
lên, được truy phong Tuấn lương tôn thần.
Gia Phổ ghi ông chỉ có một người
con trai độc nhất là Bùi Văn Thường nhân ra thăm làng Cẩm Thạch, cảm
kích lòng tốt của dân làng đối với thân phụ,
ông ở luôn tại đấy, lấy
vợ, sinh hạ con cháu, biệt lập thành chi họ
Bùi ở làng Cẩm Thạch, Phả
gọi là biệt chi từ đời
thứ 6 này.
Về cái
chết cũng như việc tìm hậu
duệ của ông Bùi Dục Tài còn có nhiều việc phải
bàn. Nhưng cần phải bác bỏ
những nguồn tài liệu thiếu chính xác viết
về ông như: “Sau vì ông thẳng thắn, bọn
gian thần lấy làm ghét, mưu giết chết
ông. Con ông là Bùi Vĩ sau cũng bị
hại (Xem Bùi Vĩ, Từ điểm nhân vật
lịch sử sđđ, tr.35). Chúng tôi không
biết bằng cách gì, cuốn từ điển
này đã thủ tiêu đi ông
Bùi Vĩ, con của ông Bùi Dục Tài không có tên trong bộ sách. Ô Châu cận lục cho biết:
"Con là Vĩ đậu nho
sinh trúng thức, khi giặc Liễn nổi
loạn, Vĩ bởi có em gái bị giặc dụ
dỗ đi theo, vì thế nên Mạc Thái Tổ
(tức Mạc Đăng Dung) ghét về sĩ phu kiêu bạc ghép tội xử tử.
Bởi thế nên nếp nhà bị
sa sút đi". (Tr.88). Ông Bùi Dục
Tài mất năm 1518, thế tổ Mạc
Đăng Dung trị vì trong 3
năm (1527 - 1529), nghĩa là trong vòng
10 năm sau, con trai ông Tài đã bị
giết bởi nhà Mạc và theo Ô Châu cận
lục thì ông Tài còn có người con gái “bị giặc dụ
giỗ đi theo” không rõ còn
mất, tung tích thế nào. Rất có thể
vì sự cố này mà gia phổ họ Bùi ở
Câu Nhi lách đi, ghi là biệt
chi, coi như con cháu ông
Bùi Dục Tài không còn ai
nữa đó chăng?
Điều rất đáng mừng là hơn 500 năm sau, Đông Hà chúng ta đã có con đường nho nhỏ khiêm nhường từ QL 9A qua Uỷ
ban phường I, ra “Chợ Lao Bảo” hoặc
chợ Âm Phủ cũ mang tên ông Bùi Dục Tài. Có nên không khi đặt vấn đề
trên quê hương Hải Lăng của ông mà cả tỉnh Quảng
Trị chúng ta nữa, cần có những
ngôi trường phổ thông trung học cuối cấp
mang tên ông nghè khai khoa, dựng
mốc son học vấn khoa cử
không chỉ cho một địa phương
danh tiếng mà cả xứ Đàng Trong như
tác giả Dương Văn An khẳng định: Cái tài văn chương
chính sự của Bùi Dục Tài thật
là người giỏi của cả
nước, chứ không phải là người giỏi
của xứ Ô Châu hoặc Lê Quý Đôn ca ngợi: Văn mạch một phương
dằng dặc không dứt.
Y.T-P.X.V
_________
(1) Chúng tôi chưa
hề nghe đến tỉnh Văn Giang thuộc
Nam Định, xin ghi lại để rộng
đường tham khảo.
(2) Từ
đây trở xuống, về số
liệu, niên đại chúng tôi tham khảo: “Lịch triều
hiến chương loại chí”, Khoa mục
chí
(3) Xin xem bài này ở
Tạp chí Văn hóa Quảng Trị số
2, do Lương An dịch và giới thiệu.
a